This is default featured slide 1 title

Chào mừng các bạn đến với Tử Vi Đẩu Số Tân Biên. Nơi cung cấp tài liệu sưu tầm từ Tiền nhân đi trước.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Friday, January 23, 2015

Tử Vi - Truyền thuyết về 14 chính tinh

Khoa Tử vi hoặc nói cho đủ là Tử vi đẩu sổ là một trong những môn khoa học cổ của người Trung Quốc. Dựa trên 4 dữ kiện: năm, tháng, ngày, giờ sinh của một người, khoa Tử vi sẽ sắp xếp hơn 100 sao vào trong 12 cung để từ đó mà luận giải về sang hèn, họa phúc của đời người.
Trong hơn 100 sao ấy thì có 14 sao chính (chính tinh) là quan trọng cần quan tâm trước tiên. Các sao chính nằm trong 2 vòng là vòng Tử Vi và vòng Thiên Phủ. Vòng Tử Vi gồm 6 sao: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh. Vòng Thiên Phủ gồm 8 sao là: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Nhiều người thường lầm tưởng các sao trong Tử Vi là các sao có thật trên bầu trời. Về điều này, các bậc thầy Tử vi đã nói rõ là không phải.
Trong công trình nghiên cứu mang tên Tử Vi khảo luận, hai tác giả Hoàng Thường và Hàm Chương đã chỉ rõ: “Các sao này không phải là sao trên trời mà là các danh xưng nói lên các ý nghĩa về phúc, họa, giầu, nghèo, sang, hèn và các hoàn cảnh con người kinh qua trong suốt cuộc đời”.
Trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Vũ Tài Lục do Ngân Hà thư xã xuất bản cũng khẳng định “14 vị chính tinh thực ra chỉ là những ký hiệu cho một bài toán”. Và không riêng chính tinh mà cho đến mọi sao trong Tử vi cũng chỉ là những ký hiệu để làm căn cứ giải đoán về phúc, họa, giầu, nghèo… của con người mà thôi.
Truyền thuyết về các chính tinh
Như trên đã nói, 14 chính tinh cũng như toàn bộ các sao trong khoa Tử Vi không phải là các sao có thật mà chỉ là các danh xưng được người xưa đặt ra để làm căn cứ trong bài toán luận giải số mệnh một người. Mà đã là dùng vào việc luận giải thì phải quy kết cho mỗi sao một tính chất nào đó để khi nó ứng vào số mệnh thì đương số phải chấp nhận lấy cái điều ấy. Bởi thế tất cả các sao trong khoa Tử Vi đều được gán cho mang những tính chất riêng biệt. Ví như Tử Vi chủ về sự tôn quí, cứu giải, Tham Lang chủ về dục vọng hoang đàng…


Đối với dân gian, phải nhớ tính chất của từng sao là điều khó. Bởi thế, người ta đã gán ghép cho 14 chính tinh, mỗi sao gắn với một nhân vật từ thời phong thần trong một truyền thuyết rất thú vị.
Trong Tử Vi đẩu số toàn thư, truyền thuyết được kể lại như sau: Cuối thời nhà Ân ở Trung Quốc có ông vua Trụ rất hoang dâm hiếu sắc. Một lần đi săn, Trụ Vương gặp mưa lớn nên vào miếu thờ Cửu Thiên Huyền Nữ tránh mưa. Nhìn thấy tượng Huyền Nữ đẹp quá nên Trụ Vương mê mẩn. Bởi thế sinh ra một quyết định rất bất kính mà cũng thật nực cười đó là bắt lính khiêng bức tượng về cung để xung vào đám tì thiếp. Lính sợ thần quở phạt nhưng còn sợ sự tàn ác của Trụ hơn nên vẫn phải thi hành.
Ở trên trời, Cửu Thiên Huyền Nữ biết chuyện thì giận lắm mới biến một con hồ ly trong rừng thành người đàn bà tuyệt sắc rồi sai đến mê hoặc Trụ Vương để làm cho nhà Ân phải diệt. Người đàn bà tuyệt sắc ấy không ai khác chính là Đát Kỷ. Quả nhiên, từ khi Đát Kỷ đến, Trụ Vương say mê Đát Kỷ bỏ phế việc triều đình, gây xáo trộn trật tự.
Cùng lúc đó, trên trời đang thiếu nhiều thần linh, Ngọc Hoàng nghĩ Cửu Thiên Huyền Nữ quyết tâm diệt Ân thì thế nào nước cũng loạn. Nước loạn tất sẽ có nhiều anh hùng, trung thần chết vì quốc nạn nên ngài phái Thái Bạch Kim Tinh lập tức ra Nam Thiên Môn cầm sổ chờ sẵn, trong cơn binh lửa đón những người chết về phong thần để cai quản Thiên đình.
Thời ấy ở phía Tây giang sơn nhà Ân có nước chư hầu họ Chu dưới sự trị vì của Chu Văn Vương rất giàu có thịnh vượng, văn hóa cao. Sợ nhà Chu một ngày kia sẽ lấn áp mình nên Trụ Vương định ra tay trước. Trụ cho mời Văn Vương về kinh đô Triều Ca nói là để họp nhưng thực ra là để tìm kế trừ khử. Văn Vương tinh thông bát quái Dịch Lý của Phục Hi nên đã biết trước âm mưu của Trụ Vương nhưng vẫn đi. Đến nơi, lập tức ông bị kết tội phản nghịch, bị tống giam chờ ngày hành quyết.
Con lớn của Văn Vương là Bá Ấp, vóc người tuấn tú, tính khí hiên ngang, đàn bà con gái trông thấy Bá Ấp một lần là thương nhớ khó quên. Bá Ấp rất có hiếu, nghe tin cha bị hại lòng như lửa đốt nên ngày đêm phi ngựa đến gặp vua Trụ để minh oan cho cha. Trụ Vương hứa 3 ngày sau sẽ nói chuyện và lưu Bá Ấp ở trong cung.
Đêm khuya, Bá Ấp ngồi gảy đàn. Tiếng đàn như nước chảy trên đá, buồn như chim đỗ quyên vang vọng khắp cung điện khiến Đát Kỷ tỉnh giấc lắng nghe rồi lần theo tiếng đàn mà đến phòng Bá Ấp. Nàng ta chỉ mặc một tấm áo lụa mỏng. Qua song cửa, trông thấy Bá Ấp khôi vĩ cao sang thì mê ngay. Vốn là con hồ ly tính tình cực kỳ dâm đãng nên Đát Kỷ chẳng chút ngần ngại mở cửa phòng Bá Ấp rồi lả lơi quyến rũ chàng. Nào ngờ Bá Ấp chẳng động tâm còn lớn tiếng mắng Đát Kỷ. Đát Kỷ cũng không vừa bèn chửi lại Bá Ấp làm náo loạn cung đình. Binh lính kéo đến, Đát Kỷ già mồm khóc lóc với vua Trụ rằng mình bị Bá Ấp làm nhục. Trụ Vương cả giận, cơn ghen ngùn ngụt, không cần hỏi han thét quân mang Bá Ấp ra chém rồi băm thây làm chả nướng đem đến cho Văn Vương ăn.
Là người giỏi toán số, trong ngục, Văn Vương đã biết hết cơ sự nhưng khi quân canh mang chả nướng vào, ông vẫn ung dung ngồi ăn hết đĩa chả. Trụ Vương thấy vậy cười nói: “Tên đó đúng là đồ hư danh, ăn thịt con mà cũng không biết thì có gì đáng sợ, không hiểu sao thiên hạ phục hắn về cái tài thần toán chiêm bốc”. Nói rồi Trụ Vương sai thả Văn Vương ra khỏi ngục.
Trên đường về, nỗi mừng được thả không lấp được cái buồn ăn thịt con. Đến nhà, Văn Vương tìm khu vườn cây xanh tốt, tự móc họng để nhả những miếng chả ra. Lạ thay, thịt Bá Ấp biến thành một động vật lông trắng muốt, đôi tai dài, mắt đỏ màu hồng ngọc chạy nhảy tung tăng trông hiền hậu dễ thương, đấy là con thỏ đầu tiên của thế giới. Nó cúi đầu chào Văn Vương rồi chạy vào đám cỏ xanh mất dạng. Thái Bạch Kim Tinh đưa tay đón bắt con thỏ đưa về trời. Giữa lúc ấy trên một ngôi sao, hoa tường vi nở đỏ bát ngát.
Ngôi sao này là chủ tinh của một chòm sao. Do đề nghị của Thái Bạch Kim Tinh, Ngọc Hoàng liền bổ nhiệm Bá Ấp về cai quản sao Tử Vi bởi lẽ Bá Ấp hội đủ ba tính chất: thiên lương, tôn quí và cao quí.
Vậy là sao Tử vi – vì chính tinh được ví như ông vua trong các vì sao của khoa Tử vi đã gắn với dáng dấp con người Bá Ấp. Những tính cách của Bá Ấp cũng chính là tính chất cho sao Tử vi. Bởi thế sao Tử vi được cho là sao có sức cứu giải lớn lao, mang phẩm chất tôn quí và trong sáng thánh thiện.
Truyền thuyết lạ về các chính tinh trong Tử Vi (2)
(Kienthuc.net.vn) - Sao Tử vi đã mang dáng dấp của chàng Bá Ấp tôn quí thánh thiện, còn 13 sao còn lại là hình bóng của những nhân vật nào?
10 loại cây cảnh giúp gia chủ phát tài
Truyền thuyết lạ về các chính tinh trong Tử Vi (1)
Những người thuộc triều Chu
Từ kinh đô Triều Ca trở về, Văn Vương thề quyết trả thù cho con. Để tiêu diệt nhà Ân, Văn Vương ngày đêm nỗ lực xây dựng xứ sở cho hùng mạnh. Vì làm việc quá nhiều nên ông kiệt lực mà chết, việc diệt nhà Ân giao vào tay Vũ Vương, em trai của Bá Ấp. Vũ Vương nối nghiệp cha, chăm lo nông nghiệp, chú trọng luyện binh mã nên quốc lực ngày càng tăng trưởng. Lại nhờ có vị quân sư là Khương Tử Nha tài giỏi nên chẳng bao lâu sau đã đánh bại Trụ Vương tiêu diệt triều Ân.
Khương Tử Nha là người tài trí lỗi lạc nhưng lúc chưa đắc chí thì nghèo khổ cùng cực bị mụ vợ già chửi mắng suốt ngày. Năm 90 tuổi mới gặp Văn Vương mời về làm quân sư. Sau khi phò Vũ Vương bình xong thiên hạ, Khương Tử Nha được phong về cai quản đất Tề. Lúc chết, Thái Bạch Kim Tinh mời về cai quản sao Thiên Cơ. Bởi thế Thiên Cơ trong khoa Tử Vi là tượng trưng cho trí tuệ, quyền biến mưu cơ như tài trí của Khương Thái Công đã giúp Vũ Vương diệt Trụ vậy.


Lại nói về mụ vợ già của Khương Tử Nha. Năm ngoài 70 tuổi, Khương Công mới lấy người con gái lỡ thì tên là Mã Thiên Kim. Năm ấy Thiên Kim cũng đã ngoài 50. Từ ngày chung sống, gia cảnh cực khó khăn. Mã Thiên Kim là kẻ thô tục, lăng loàn nên thường nhiếc mắng chồng. Sau hơn 10 năm nghèo khổ quá không chịu nổi, Mã bỏ đi. Bấm tay, Tử Nha biết lúc người vợ thô tục này ra đi là lúc vận bĩ của ông đã hết. Không lâu sau một sớm một chiều ông thành quân sư của Văn Vương. Nghe tin, Thiên Kim vừa tiếc vừa hối hận nên thắt cổ tự tử. Nghĩ tình cũ, Tử Nha cho làm tang ma đàng hoàng. Linh hồn Thiên Kim được Thái Bạch cho cai quản sao Cự Môn là một tinh cầu chủ về các việc thị phi với tính chất nỏ mồm lắm lời và nghi hoặc.
Người đặc biệt nhất trong 14 vị thần được phong là Lý Tịnh. Ông này đặc biệt vì ngay khi còn sống đã được Ngọc Hoàng sai Thái Bạch Kim Tinh xuống phong thần và cho cai quản sao Thiên Lương. Lý Tịnh giỏi tổ chức, quản lý quân đội nên đã góp sức đưa quân Chu đến thắng lợi. Bởi vậy, sao Thiên Lương trong Tử Vi đẩu số cũng chủ về tổ chức, xếp đặt và quản trị công việc.
Vũ Vương là ông vua anh minh, có công vũ dũng đánh dẹp bạo quân rất xứng đáng với sao Vũ Khúc nên Thái Bạch dâng sớ xin Ngọc Hoàng cho Vũ Vương về cai quản sao ấy. Vũ Vương chẳng những vũ dũng mà lại giỏi cả kinh tế nên đời sống nhân dân sung túc. Do vậy sao Vũ Khúc trong Tử Vi còn là sao chủ về tiền bạc giàu có nữa.
Tuy Vũ Vương là người diệt Ân nhưng mọi nền tảng đều là của Văn Vương để lại. Thái Bạch nhận thấy Văn Vương xứng đáng là một vị thần giỏi dung hòa xếp đặt, tính tình ôn thuận nên cho về cai quản sao Thiên Đồng.
Những người thuộc triều Ân
Trụ Vương tuy tàn bạo nhưng xung quanh cũng có nhiều trung thần. Đáng kể nhất là Tỉ Can. Ông này từng khuyên Trụ dứt bỏ Đát Kỷ nhưng bị Trụ mắng là bất trung. Để tỏ lòng ngay thẳng, Tỉ Can nói: “Nếu bệ hạ không tin lời, thần xin đem tấm lòng son sắt dâng lên bệ hạ”. Nói rồi cầm dao tự đâm vào ngực moi tim đưa cho Trụ Vương. Tỉ Can chết rồi Thái Bạch thương lắm tới đón về trời giao cho cai quản sao Thái Dương (là mặt trời) là tinh cầu sáng rực, cực kỳ quang minh chính đại.
Ngược với Tỉ Can là tên đại gian thần tên Phí Trọng. Để vinh thân phì gia, tên này đã sàm tấu và dùng gian kế giết hại nhiều trung thần của triều Ân. Khi Ân bị diệt, Khương Tử Nha bắt tên này đem chém đầu. Ngày hành hình, trên trời thiếu thần trị nhậm sao Liêm Trinh nên Thái Bạch liền dùng Phí Trọng về quản sao ấy. Cũng bởi vậy, mọi sự tà ác, lắt léo không ngay thẳng thì Liêm Trinh là sao đứng đầu trong Tử Vi Đẩu số.
Hoàng hậu của Trụ Vương là người phụ nữ họ Khương rất tài năng, hiền thục nhưng từ ngày Đát Kỷ xuất hiện, bà bị Trụ bỏ rơi. Do Đát Kỷ xúi giục, Trụ giết luôn Khương hậu. Hồn lên thiên đình, Thái Bạch cho bà cai quản một tinh cầu đầy vật sản phì nhiêu là sao Thiên Phủ. Bởi thế, Thiên Phủ đặc trưng cho tính chất tài năng và lòng từ bi.


Trong Ân triều có ông quan tên là Hoàng Phi Hổ. Ông này có người vợ họ Giả rất nhan sắc. Một năm vào ngày Tết Nguyên đán, theo lệ các quan phải cùng phu nhân vào bái yết quốc vương. Năm ấy, đang lúc rượu say, Trụ Vương trông thấy Giả phu nhân nhan sắc, chẳng giữ lễ vua tôi gì nữa chạy lại ôm Giả phu nhân mà nài ép chuyện bậy bạ. Không chịu nhục, Giả phu nhân bỏ chạy rồi cùng đường lao mình từ trên lầu cao xuống đất tự tử. Thái Bạch đón vong hồn bà lên trời cho cai quản sao Thái Âm (mặt trăng). Bởi thế sao Thái Âm trong Tử Vi đại diện cho sự thanh khiết, trinh thảo như tinh thần của Giả phu nhân vậy.
Còn Đát Kỷ, khi Ân bị diệt đã bị Khương Tử Nha xử tử. Thái Bạch bèn bắt hồn ả về phong làm thần dục vọng, hoang đàng để cai quản sao Tham Lang. Tinh cầu này đầy chó sói hung dữ không thần nào trị được nhưng lúc Đát Kỷ tới nơi thì chúng reo mừng. Trong Tử Vi, sao Tham Lang mang tính chất điếm đàng tửu sắc, ưa phung phí ăn chơi, tượng trưng cho người đàn bà phá hoại chồng con, vô tài, bất đức. Cũng bởi thế mà xem lá số của người phụ nữ nào có Tham Lang thủ mệnh thì người ta rất không ưa. Trong phú Tử vi của người Việt đã có câu lưu truyền rằng:
Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất
Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân
Nghĩa là trai mà có sao Phá Quân thủ mệnh tại cung Thìn và cung Tuất là tướng bất nhân. Còn gái mà có Tham Lang và Thất Sát thủ mệnh tại cung Dần, cung Thân thì bạc tình.
Trong đám trung thần của Trụ Vương còn có Văn Thái Sư làm tể tướng và đại nguyên súy của Ân triều. Quân Ân bị thua trận, Văn Thái Sư chết tại trận. Ông này được Thái Bạch tiến cử trông coi sao Thiên tướng với tính chất trung trinh tiết liệt.
Hoàng Phi Hổ uất ức vì vợ bị vua hại chết nên nổi binh đánh lại Trụ Vương rồi về hàng Vũ Vương. Ông này đánh trận hăng hái thu được nhiều thắng lợi nhưng sau cũng chết thảm tại trận. Vong hồn Phi Hổ được đón về cai quản sao Thất Sát, được phong làm thần chiến tranh, coi việc sát phạt với tính chất uy nghiêm, quyết liệt.
Sau cùng, Trụ Vương hoang dâm vô độ mà đến tan nát cơ đồ. Khi quân Chu đánh tới nơi, Trụ hết đường phải chạy lên lầu cao nổi lửa tự thiêu chết mình. Vong hồn Trụ Vương được Thái Bạch đưa về sao Phá Quân - một sao chủ về sự phá hoại với tính cách hung bạo, ngang ngược.
Với 14 chính tinh được gắn với 14 nhân vật với tính cách lương thiện hay hung ác rõ rệt, khoa Tử vi đã hiện ra trước mắt mọi người thật là dễ hiểu và gần gũi. Đối với những ai yêu mến khoa Tử vi thì đây là một câu chuyện giúp cho việc nhớ tính chất của các sao dễ dàng hơn để dùng trong việc giải đoán một lá số.
Tổng kết lại, 

- Sao Tử Vi là Bá Ấp, thần của khí chất tôn quí. 
- Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần. 
- Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái. 
- Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú. 
- Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận. 
- Sao Liêm Trinh là Phí Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo. 
- Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi. 
- Sao Thái Âm là Giả phu nhân, thần của tinh khiết, trinh tháo và sạch sẽ. 
- Sao Tham Lang là Đát Kỷ, thần của dục vọng, vật chất. 
- Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc. 
- Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh. 
- Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cai quản, tổ chức, xếp đặt. 
- Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt. 
- Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao. 
Đào Duy Hùng - DaDuHu( st)

Friday, January 16, 2015

Tử Vi - Các khái niệm cơ bản

1, Tinh tú: Bao gồm trên dưới 100 sao (tùy trường phái tử vi), 2, Chính Tinh, phụ tinh: chủ đạo cho số phận chủ yếu phát triển xu thế tinh chính diệu gọi là Chính Tinh, chỉ Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân loại, chung mười bốn sao. Phụ trợ Chính Tinh phát huy tác dụng cùng phát triển biến hóa gọi là phụ trợ tinh diệu, chỉ Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Lộc Tồn, Thiên Mã, Kình Dương, Đà La, Hoả Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kỵ loại mười tám tinh viên diệu. Tổng cộng ở trên Chính Tinh cùng Phụ tinh đều thuộc Giáp Cấp tinh, chung ba mươi hai sao.

Friday, June 20, 2014

Giai thoại liên quan đến Thái ân thần kinh

Xưa nay khi nói đến Nguyễn  Bỉnh Khiêm, đa phần ai cũng nhắc đến Sấm ký và bộ Thái Ất Thần kinh. Đồng thời ai cũng bảo Thái Ất Thần kinh là sách do Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đem từ Bắc quốc về truyền cho trò yêu. Nhưng cụ thể câu chuyện đó ra sao thì mỗi người kể một kiểu nên nó cũng kỳ bí như chính môn “Dự đoán học”. Với dòng họ Lương bộ sách này liên quan trên nhiều góc độ và tôi cũng từng hiểu như mọi người. Song qua nhiều năm tìm hiểu, nhất là những tháng ngày rảnh việc “chờ hưu” càng tìm kỹ càng ngẫm ra rằng “thế nhưng không phải thế”!. Nhân tháng có ngày “Nhà giáo Việt Nam”, tưởng nhớ cặp Cha-Con thầy giáo (Lương Hay-Lương Đắc Bằng) đào tạo cho đất Việt hai Trạng nguyên xuất chúng (Lương Thế Vinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm), thử tìm hiểu về hậu trường bộ sách Kỳ bí “Thái Ất Thần kinh”.


1. Bí hiểm của sách “Thái Ất Thần kinh”:

Thái Ất thần kinh 太乙神经 hay Thái Ất là một mô thức thuật số cơ bản trong tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn) của lý số Đông phương, chủ yếu nghiên cứu các tính toán liên quan đến sự hưng vong của các triều đại, các trận pháp ở tầm cỡ chiến lược. Trong đó, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người.

Tương truyền sách này từ rất xưa, lâu lắm rồi, Thái Ất Chân Nhân 太乙真人 [1] ban xuống trần thế nếu hiểu được có thể biết thiên cơ, họa phúc cõi trần, nhìn thấu tương lai, thông thiên địa hầu cứu nhân gian. Nếu cuốn sách này vào tay người hiền tài thì có thể bảo hộ và cứu giúp nhân gian tránh được nạn kiếp; còn nếu như rơi vào tay kẻ gian thần thì nhân gian sẽ xẩy ra đại loạn.

Lai lịch bộ sách lưu hành một cách bí ẩn từng có hai giả thuyết:

- “Thái Ất Thần kinh” là bộ sách rất quý, dạy về các môn địa lý, chiêm tinh, chỉ cách xét đoán những việc kiết hung. Có người nói Quốc sư nhà Thục Hán ( 蜀漢, 221-263 ) thời Tam Quốc là Gia Cát Lượng ( 諸葛亮 , 181–234 ) được người đời sau tôn sùng và mến phục tài trí, một phần lớn nhờ nghiên cứu “Thái Ất Thần kinh”. Bộ sách này chỉ có hai bản mà Cụ Lương Ðắc Bằng may mắn có một bản sau truyền lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn một bản nữa ở bên Bắc quốc. Bộ sách này, cũng theo thuyết trên đây, rất khó hiểu nên người đọc kém, không có trí thông minh siêu việt không thể lãnh hội được dù có sách quý trong tay. Đến thời Tống ( 宋朝 , 960-1279 ), một đạo sĩ rất nổi tiếng là Triệu Nga cũng đã đúc kết kinh nghiệm cổ truyền viết thành sách nhưng chưa có lời giải vì lời giải còn lưu lạc ở một phương khác.

- Nhưng cũng có người cho rằng bộ sách đó không có gì là kỳ diệu và thần bí cả. Đó là sách Thái Huyền của Dương Hùng 楊雄 , một danh nho sinh vào khoảng đời Hán Tuyên đế ( 漢宣帝, 91 -49 tCn) và mất khoảng cuối đời Vương Măng ( 王莽, 45 tCn-23 ). Dương Hùng thuở nhỏ thông minh, thích học, nhưng ghét lối từ chương, ưa tìm những điển tích sâu xa uyên bác, chuyên nghiên cứu về dịch học. Chính ông đã làm ra sách Thái Huyền để giảng thuyết âm dương vũ trụ, nhưng với lối văn cầu kỳ khó hiểu, nhiều người không phục, cho là lập dị. Sở dĩ bộ “Thái Ất Thần kinh” được xem như loại sách quý là vì người ta muốn quan trọng hóa, thần bí hóa vấn đề.

2. Hình thành “Thái Ất Thần kinh” của người Việt:

Tương truyền rằng trong một lần đi sứ sang Minh quốc ( 明朝 , 1368- 1644 ), Thượng thư Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ( 尚書榜眼梁得朋, 1472 – 1516 ) [2] , do cơ duyên gặp người đồng tộc[3] mách bảo, thành ý nên cụ có được bộ “Thái Ất Thần kinh” mang về, nhưng đọc cũng không hiểu mấy. Những năm cuối thời Lê Tương Dực ( 黎襄翼 , 1495 – 1516) , nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế ông cáo quan về quê Thanh Hóa dạy học. Bởi mến, tin người trò yêu là Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 阮秉謙 , 1491-1585) có cha hiền lành đức độ[4], người mẹ xinh đẹp thông minh, giỏi tướng số văn thơ[5] và bản thân trò đặc biệt thông minh hơn người nên ông hết lòng truyền thụ kiến thức.

Một hôm, cụ Lương Đức Bằng ốm, biết rằng mình không sống lâu được nữa bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm đến căn dặn:

- Nay thày sắp sửa xa rời các con, thày không có điều gì dặn lại các con chỉ khuyên các con: kẻ ra làm quan thì luôn nhớ ba chữ “thanh, thận, cần”, kẻ về ẩn dạy học thì luôn nhớ bốn chữ “an bần, lạc đạo”.

Nghỉ một lát, cụ Bảng nhãn nói tiếp:

- Thày có chút việc riêng muốn nhờ cậy con: do muộn mằn đến nay thầy mới có con đang còn trong bụng mẹ nó và ta đã dặn nếu sinh con trai đặt tên là Hữu Khánh. Sau này, nhờ con thay thầy mà dạy bảo và dìu dắt nó đi theo con đường ngay. Ðược như vậy, dù thầy có ở suối vàng được mãn nguyện lắm.

Ngừng lời, Lương Đắc Bằng chỉ một cái tráp nhỏ, đặt ở đầu giường rồi bảo Nguyễn Bỉnh Khiêm:

- Con hãy mang tráp đến đây, mở ra lấy một bộ sách mà ta đã gói kỹ vào để sẵn trong ấy.

Nguyễn Bỉnh Khiêm vâng lời, làm theo ý thầy. Cụ Bằng lại bảo tiếp:

- Thầy cho con quyển sách này, vì thầy nghĩ chỉ có con mới có thể hiểu nổi, nhưng con phải hứa với thầy là phải giữ gìn sách cẩn thận, đọc kỹ, khi hiểu mang ra giúp đời, làm việc thiện. Quyển sách này được một dị nhân đồng tộc trao cho trên đường đi sứ sang Minh quốc trở về. Cụ ấy còn dặn ta: Chừng nào trong tâm linh muốn cho ai thì người ấy sẽ được phần. Nay, thầy giao quyển sách này lại cho con, ấy là con có phần.

Người học trò đất Trung Am lạy tạ nhận lời. Khi Lương Đắc Bằng tạ thế[6], Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại chịu tang 3 năm. Sau đó, ông về quê, tự học và đến khoa thi năm Đại Chính thứ 6 ( 大正六年, Ất Mùi, 1535 ) ông đi thi đỗ Trạng nguyên 狀元 . Làm quan dưới triều Mạc, ông được bổ dụng Tả thị lang bộ Lại 吏部左侍郎, sau thăng Thượng thư 吏部尚書 kiêm Đông các Đại học sĩ 東閣大學士, được phong tước Trình Tuyền Hầu 程璿侯 rồi thăng tới Trình Quốc Công 程國公 và do ông đỗ Trạng nên dân gian gọi là Trạng Trình 狀程 .

Lúc rảnh, nhất là sau khi cáo quan về quê năm 1542, nhớ lời thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang sách đọc thấy không lĩnh hội được gì mấy, ông bèn mang sách cất đi, thỉnh thoảng lại lấy ra đọc, đọc xong rồi lại cất, cứ như thế mãi. Cho tới một hôm, có một người khách đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một bài thơ. Ông mở ra xem thì thấy ý tứ bài thơ có phần liên hệ với những câu trong bộ sách của thầy Bằng trao, mà ông đã cất công sức đọc nhiều lần nhưng chưa thông được. Ông hiểu đây là một phần của bộ sách bí ẩn kia và ông đã gộp chúng để nghiền ngẫm.

Nhờ kiến thức từ thầy và mẹ truyền thụ lại thấu hiểu bộ sách này mà về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lý số, hiểu về quá khứ, đoán được tương lai, thế cuộc. Vì vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra lời khuyên hữu ích với Nguyễn Hoàng ( 阮潢 , 1525 - 1613), Trịnh Kiểm ( 鄭檢 , 1503- 1570), con cháu Mạc Mậu Hợp ( 莫茂洽 , 1560-1592) đồng thời viết ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri ấy tập hợp trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình 狀程讖 tiên đoán việc đời sau, gắn với nhiều giai thoại kỳ thú.

Cũng cần nhắc lại là: ngoài việc nghiền ngẫm sách, áp dụng để đưa ra những lời khuyên với các thế lực Nguyễn, Trịnh, Mạc nên đã giữ yên đất nước một thời gian dài, cụ Trạng còn nuôi dạy người con trai duy nhất của ân sư là Lương Hữu Khánh[7] nên người theo đúng ý nguyện của thầy. Đồng thời cũng chính cụ Trạng đã cưu mang một người cháu thầy Bằng là Lương Đắc Cam 梁贵公諱甘字三郎 từ Thanh ra, đưa sang lập nghiệp bên xã Lao Chữ 牢渚 , tổng Dương Áo 陽襖 , huyện Tân Minh 新縣 , phủ Nam Sách 南策 , trấn Hải Dương 海陽 (nay là thôn Chử Khê, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng), lập ra nhiều chi phái họ Lương ở Tiên Lãng, An Lão (thuộc tf Hải Phòng) ngày nay.

Như vậy, từ sách  quý do thầy tin tưởng giao phó, do cơ duyên lại được tiếp thu kiến thức y lý từ người thầy tài năng đức độ và trí thông minh thiên bẩm với kinh nghiệm bản thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã soạn ra bộ “Huyền Phạm” và sau này Phạm Đình Hổ ( 范廷琥 , 1768-1840) dựa vào đó soạn ra bộ là “Huyền Phạm tiết yếu”. Theo một số tác giả thì đây là một công trình nghiên cứu công phu. Nó tổng hợp nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, Bát quái của Triết học cổ truyền, gộp được các cách khoa dự đoán Kỳ Môn tản mát trong dân gian; nó là sự tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ vũ trụ, là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật.

Những giá trị đó trong sách của Dương Hùng thời Hán, Triệu Nga thời Tống chưa đạt được. Như vậy phải chăng yếu tố “đem từ Bắc quốc về” chỉ là do đời sau đặt ra để tăng giá trị bộ sách bởi tính “tự ti” của người Việt hồi ấy! Bộ sách ấy do cụ Trạng đất Vĩnh Lại soạn ra, dựa vào quan điểm lý dịch Việt, có tham khảo các sách viết về chủ đề này bên Hán, Tống.  Chính người Trung Hoa đã khen “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”!

3. Sách quý ra với công chúng:

Bộ sách này lưu hành bí ẩn trong dân gian, chưa được khắc in nên luôn trong tình trạng “tam sao thất bản”. Sang Thế kỷ XX, do cơ duyên, Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt tiếp cận và dịch ra quốc ngữ năm 1972 gồm 5 cuốn, được Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót.

Sách quý đã tìm thấy (tuy chưa đầy đủ), đã được dịch, đã in và phát hành (có chú dẫn đàng hoàng) nhiều người tìm đọc nhưng mấy ai đã hiểu. Cái tâm lý “đồn thổi” của người Việt làm tăng tính ly kỳ của những lời Tiên tri nhưng làm bí hiểm hơn những gì cụ Trạng để lại. Sinh thời, Trạng Trình cũng thấy Thái Ất thực là khó mà khó nhất trong các môn toán của tiền nhân. Bởi thế cụ có soạn bộ “Du Lỗ” và viết bài tựa về “Ngọc Tướng Huyền Cơ” để giúp riêng những ai kém thông minh vẫn có thể hiểu được. Thời Nguyễn, chỉ có các quan làm việc tại triều đình mới biết và bí mật truyền lại cho con cháu nên nó chỉ là sách chép tay nên càng kỳ bí.

4. Tâm nguyện:

Nay sách in ra, phổ biến rộng là lợi thế của thời hiện đại nhưng tính “nguyên bản” chắc chi đảm bảo. Trong thời @ mấy ai tinh thông thực học như thời chữ Nho lên ngôi và tư duy kỹ thuật thời nay cũng khác xưa nên mọi lý thuyết trong bộ sách Thái Ất Thần kinh cũng như Sấm ký chỉ nên coi là tài liệu tham khảo. Coi nó là “mê tín” là sai nhưng sử dụng nó như là lá bùa lý giải, dự đoán tất cả cũng không đúng.

Là người bụng chứa một phần “Ngũ xa thư” 五車書 và chỉ sô IQ chẳng đến nỗi nào nhưng đọc đi đọc lại Phần mở đầu và 7 Cuốn với 466 trang khổ A4 mà chẳng hiểu gì nhiều bởi lời văn cổ lại đầy những thuật toán bí hiểm (tuy đã được người dịch chú giải đề đáp), chỉ hiểu rằng: đây không phải sách dạy xem bói!. Thế mà có người “giấu giấu diếm diếm”, bảo lĩnh hội được và bỗng dưng trở nên “thầy” phán đủ các lĩnh vực. Phục thật! Hay mình dốt mà không biết?

Thôi kệ họ! Ngưỡng mộ, kính trọng cụ Trạng quê hương, người gắn với Viễn tổ và Thượng tổ dòng họ Lương xã Chiến Thắng huyện An Lão (gốc từ Tiên Lãng sang khoảng năm 1750) tôi tìm hiểu và biên soạn lại chuyện này.

Cũng là một nén tâm hương dâng lên tiền nhân, lưu giữ lại cho bà con ai quan tâm thì đọc, tự rèn mình, tìm cách ứng nhân xử thế hợp nhất chứ không mong trở thành “nhà nghiên cứu”, nhất là “Chiêm tinh gia” chi cả!
- Lương Đức Mến, tháng 11/2013 -



[1] là sư phụ của Na Tra 哪吒 ở trên thượng giới và là người rất nghiêm khắc với các học trò của mình. Một vị tiên tốt bụng, ông lúc nào cũng luôn theo em gái đồng thời cũng là vợ của Phục Hi  伏羲 là  Nữ Oa 女娲 có tính tình lôi thôi và rất ít khi cưỡi mây.Mà lúc nào Thái Ất chân nhân cũng cưỡi chim hạc tiên Tiểu Hắc Bạch (chim hạc), đây cũng là thú cưng của ông.

[2] Có tài liệu viết 1477-1526, tức cụ mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh thành.

[3] Con cháu Lương Nhữ Hốt ( 梁汝笏 , ?-1428). Ông người xã Trác Vinh, huyện Cổ Đằng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, đỗ Thái Học sinh thời nhà Trần. Lương Nhữ Hốt là tướng nhà Hồ nhưng năm 1406, khi quân Minh kéo sang, theo lời chiêu dụ của tướng Minh là Hoàng Phúc, ông ra làm việc cho quân Minh và được cử làm tri phủ Thanh Hoa. Cũng vì vậy, khoảng 1407-1409 ông đến lập ấp tại Triều Hải trang và đổi tên trang này thành xã Hội Triều. Cuối năm 1427, khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh tan, Vương Thông buộc phải giảng hoà rút về, Lương Nhữ Hốt đầu hàng Nghĩa quân Lam Sơn, được Lê Lợi xá tôi. Nhưng sau đó, ông vẫn không phục, liên kết với những người từng hợp tác với quân Minh trước đây như Trần Phong, Đỗ Như Trung mưu chống lại nhà Lê. Lê Thái Tổ bèn bắt 3 người cầm đầu này giết chết vào ngày 24/11/1428, sau đó hạ chiếu tha hết cho các thủ hạ. Để giữ hòa khí với nhà Minh, vua Lê Thái tổ không tru lục đến thân thích các đầu lĩnh. Những người con của Lương Nhữ Hốt di cư sang tỉnh Vân Nam còn Lương Nhữ Hốt được nhà Minh truy phong tước Lãng Lăng Đại Vương.


[4] Giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng).

[5]   Bà Nhữ Thị Thục (? - ?), con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan (1443-1523) triều Lê Thánh Tông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng thực ra chỉ cách con sông Hàn (Tuyết Giang) và ở bên này nhìn rõ cây đa đầu làng bờ bên kia.

[6] Có nhiều tài liệu viết khác nhau về năm mất của cụ Bảng nhãn. Kết hợp lại có thể nhận xét Cụ thọ hơn 50 tuổi nên mất Bính Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó.

[7] 梁有慶 (1517 – 1590) là con Bảng nhãn Lương Đắc Bằng với người “dắng thiếp ( 媵妾 , tức vợ bé và bà này là em Chính thất Hoàng Thị Phục) sau khi cụ Thượng mất 5 tháng và sau này theo họ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 18 tuỏi. Lương Hữu Khánh là bậc Danh thần khai nghiệp nhà Lê Trung Hưng. Bởi “trong vạch kế, ngoài chống giặc” nên mưu lược, văn võ của ông được tôn trọng, nhiều lần lập công lớn và được cử làm Thượng thư bộ Lại 吏部尚書 , kiêm Tổng tài Quốc sử Quán 國史館總裁 , tước Thái tể 太宰 - Đạt quận công 達郡公 .


Bài viết: Thái ất thần kinh-Nguyễn Bỉnh Khiêm 

Nguồn 
Zing Blog

Bà Nhữ Thị Thục - Nữ kỳ tài tướng số một thời

Nhữ Thị Thục (? - ?) người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Bà được sử sách ghi nhận không chỉ là thân mẫu mà còn là người có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục, hình thành nhân cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lúc thơ ấu.


Phần lớn cuộc đời bà trải qua dưới thời Hồng Đức của nhà Lê sơ, giai đoạn được coi là đỉnh cao của chế độ quân chủ phong kiến tập quyền ở Việt Nam do sự trị vì của vua Lê Thánh Tông. Hầu như tất cả những cuốn sách, công trình nghiên cứu về tiểu sử Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều nhắc đến công lao dưỡng dục của thân mẫu ông là Từ Thục Phu Nhân (tước hiệu được vua Mạc phong tặng cho bà Nhữ Thị Thục sau này). Những giai thoại, truyền thuyết về cuộc đời bà cũng ly kỳ tựa như những giai thoại về người con lỗi lạc của bà (tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm). Bà là hình mẫu người phụ nữ rất hiếm gặp trong lịch sử Việt Nam: thông minh, quyết đoán, học rộng, giỏi văn chương, kinh sử, lại tinh thông cả dịch lý, tướng số, mang chí lớn của bậc trượng phu. Bà tâm niệm rằng: nếu không lấy được chồng làm vua thì con bà sinh ra sau này cũng phải làm vua một nước. Bà sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng danh giá, con gái của quan Thượng thư bộ hộ, tiến sĩ Nhữ Văn Lan dưới thời Lê Thánh Tông. Dù xuất thân quý tộc nhưng phải qua gần hết thời nữ nhi bà mới chọn được người ưng ý để kết duyên vợ chồng. Người được bà chọn kết duyên cũng thật đặc biệt. Ông Nguyễn Văn Định vốn là một thầy đồ ít tiếng tăm sinh trưởng tại huyện Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo ngày nay) nằm cách huyện Tiên Minh có một khúc sông nhỏ, xuất thân cũng chẳng phải dòng dõi danh gia. Nhưng bà Nhữ Thị Thục đến với ông bởi thấy ở ông có tướng sinh quý tử. Tương truyền bà đã tính toán cẩn thận ngày giờ hợp cẩn để sinh ra Nguyễn Văn Đạt (tên khai sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm). Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm còn nhỏ đã được bà hát ru bằng những câu dân ca hoặc những vần thơ do bà sáng tác, khi ông lên 4 tuổi, bà đã đem kinh truyện dạy cho con. Rồi đến khi thấy kiến thức của mình không còn đủ để truyền cho con, bà đã gửi gắm Nguyễn Bỉnh Khiêm cho những nhà Nho nổi danh đương thời dạy dỗ. Công lao của bà sau này đã được chính Nguyễn Bỉnh Khiêm ghi nhớ trong bài Tựa Bạch Vân am của ông. Hiện tại, phần mộ của bà bên cạnh phần mộ song thân là vợ chồng quan thượng thư Nhữ Văn Lan vẫn được bảo quản nguyên vẹn tại quê nhà trong gần 500 năm qua.

Đánh giá
Hầu như tất cả những nhà nghiên cứu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đánh giá cao vai trò của bà Nhữ Thị Thục trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ và nhất là biệt tài lý số của con trai bà . Tại Hội thảo khoa học “Vai trò của người mẹ và dòng họ ngoại với danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm”, cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: Bà Nhữ Thị Thục - thân mẫu danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong ba người phụ nữ nổi tiếng, tài trí hơn người của Việt Nam ở thế kỷ XVI. Đó là Trạng nguyên Linh phi Nguyễn Thị Duệ, Quận công Nhữ Thị Thuận và phu nhân Nhữ Thị Thục. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Tựa Bạch Vân am của ông cũng đã khẳng định và tỏ lòng biết ơn công lao cũng như nhiệt tâm của người mẹ trong việc dạy dỗ mình những năm đầu đời.

Giai thoại và những nghi vấn
Cuộc đời bà Nhữ Thị Thục cũng nhiều giai thoại và truyền thuyết như cuộc đời người con trai Nguyễn Văn Đạt (Nguyễn Bỉnh Khiêm) của bà. Tương truyền, bà đã tính toán cẩn thận ngày giờ hợp cẩn cho việc sinh ra người con Nguyễn Văn Đạt mà bà tin tưởng sẽ làm nên đế nghiệp sau này. Giai thoại nói rằng ngay từ đêm tân hôn bà đã dặn trước với chồng (Nguyễn Văn Định) là khi nào trăng lên đến đầu ngọn tre mới được động phòng, nào ngờ ông Văn Định động phòng hơi sớm nên bà thụ thai không đúng giờ tốt, vì thế tuy sinh quý tử nhưng không đạt được tới ngôi thiên tử về sau.

Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn đang lí giải nhiều nghi vấn về cuộc đời và hành trạng của bà. Nghi vấn thứ nhất là tại sao khi bà mất nhưng mộ phần không đặt bên nhà chồng tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo mà lại an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở thôn An Tử Hạ, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng bởi vì dân gian từ xưa vẫn luôn quan niệm rằng thuyền theo lái, gái theo chồng , sống làm dâu , chết làm ma nhà người (hiện nay, trải qua gần 500 năm, ngôi mộ của bà Nhữ Thị Thục và mộ của cha mẹ đẻ là vợ chồng quan Thượng thư Nhữ Văn Lan vẫn được gìn giữ nguyên vẹn tại thôn An Tử Hạ quê nhà). Nghi vấn thứ hai là bà có đồng thời là mẹ đẻ của cả Trạng Trình và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan hay không trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm 37 năm mà theo truyền thuyết bà Nhữ Thị Thục kết duyên với ông Nguyễn Văn Định (cha của Nguyễn Bỉnh Khiêm) khi tuổi của bà cũng không còn trẻ vào thời ấy (đã ngoài 20 tuổi). Nghi vấn thứ ba là liệu trong lịch sử đã từng có một cuộc hội ngộ giữa hai mẹ con phu nhân Nhữ Thị Thục và Nguyễn Văn Đạt (tên khai sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm) với người thanh niên đánh cá tên là Mạc Đăng Dung (sau này trở thành vị vua sáng lập ra triều Mạc) hay không.

Thursday, June 19, 2014

Tác giả Tử vi đẩu số tân biên - Vân Đằng Thái Thứ Lang?

Thuở sinh thời thì cha của cụ Hồ, là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc đậu phó bảng ở Nghệ An. Như quý vị cũng biết, là nhà nho thì ai lại không học "Tứ thư và Ngũ Kinh". Mà Tứ thư Ngũ Kinh (đặc biệt là kinh Dịch) vốn là cha đẻ của vận mệnh học bao gồm Tử vi, Tướng mệnh, Bói, Bốc phệ, Y dược, Lý số.... Thành thử ra những kẻ có ăn học ngày xưa ở nước ta gọi là nhà nho thì phần nhiều sành sỏi về Nho Y Lý Số và Tử vi lắm. Sưu tầm

Thuở sinh tiền cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc giao tình thân thiết với cha của Vân Đằng Thái Thứ Lang lắm. Lúc mới sinh cụ Hồ (có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung) thì cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc có lấy lá số rồi tự tay chấm lấy cho con mình. Một hôm cha của Thái Thứ Lang đến nhà cụ Phó bảng viếng thăm, trong lúc uống trà đàm đạo về thế sự thì câu chuyện mới đổi sang đề tài Tử vi. Hai người người bạn vốn xuất thân là kẻ sĩ nho gia nên sành tử vi lắm, lúc đó thì cụ phó bảng mới nói rằng bà xã ở nhà vừa mới hạ sanh được một quý tử và chính mình tự chấm lấy lá số cho con. Rồi cụ Phó bảng vào trong lấy lá số con mình ra để cho người bạn tri kỷ giải đoán phụ với. Hai người bạn luận bàn về lá số Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của cụ ***) và đều đồng ý với nhau về nhiều điểm chẳng hạn như "đứa trẻ này tương lai làm lớn lắm và sẽ như vầy và như vầy và như vầy đây nè..." . Xin lỗi quý vị vì đây là diễn đàn phi chính trị nên tôi không tiện kể ra hết những lời bàn luận tử vi của hai người bạn tâm giao họ Hồ và họ Thái đâu nhé, mà chỉ vắn tắt bằng những chữ "như vầy, như vầy" thôi. Lúc còn là thiếu niên thì Vân đằng Thái Thứ Lang bắt đầu học tử vi với thân phụ. Và thân phụ mới đem những lá số mẫu ra dùng làm khuôn mẫu cho con mình tập luận đoán. Những lá số mẫu ấy phần nhiều là những kẻ quen biết hoặc thân thuộc trong gia đình và giòng họ của nhà họ Thái. Và một trong những lá số mẫu ấy có "lá số Nguyễn Sinh Cung" mà cha của Thái Thứ Lang bấy lâu vẫn giữ trong kệ sách thư phòng. Đó chính là lý do tại sao Thái Thứ Lang biết rõ ngày sinh tháng đẻ của cụ Hồ vậy. Thuở sinh thời Thái Thứ Lang có quen biết với cụ Hồ và gia đình là do liên hệ bạn bè tri kỷ của thân phụ mình và cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Chứ thực ra thì Thái Thứ Lang cũng không thân lắm với cụ ***. Nhưng vì say mê Tử vi nên Thái Thứ Lang hay nghiên cứu lá số và những biến cố cuộc đời cụ Hồ để phối kiểm mà học hỏi. Mà muốn không nghiên cứu về cuộc đời cụ Hồ thì cũng không được vì cụ Hồ là một nhân vật bắt đầu nổi tiếng vào đầu thập niên 1940. Lúc trưởng thành thì Thái Thứ Lang xuống tóc đi tu vì ông biết rằng mình có duyên tu hành. Ông tu thành công lắm, và là một vị Đại Đức Phật giáo có tiếng về công phu tu luyện lẫn giải đoán vận mệnh con người qua khoa tử vi. Ông là người đầu tiên viết sách tử vi bằng tiếng Quốc Ngữ cho giới thanh niên tân học đương thời (những năm 40 và 50). Cuốn sách tử vi ông viết tựa đề là "Tử vi đẩu số" được in và bán tại miền Nam Việt Nam vào năm 1955, và được đánh giá như là "Tử vi Kinh" nên nhiều người, đặc biệt là giới thanh niên tân học thuở ấy, coi ông như là bậc thầy đáng nể trong làng tử vi ở nước ta. Cuối quyển "Tử Vi đẩu số" ấy, tác giả có in bốn lá số (kèm theo lời phê bình của chính mình cho từng lá số một) để cho độc giả tập luận đoán. Và 2 trong bốn lá số ấy là của hai danh nhân Việt nam đương thời : Cựu Hoàng Bảo Đại, và cụ ***. Nhưng vì lý do chính trị nên sau 1975 thì cuốn sách này không được lưu hành trong nước nữa, và cho tới bây giờ (2004) vẫn còn cấm lưu hành trong nước luôn. Chỉ có ở hải ngoại thì quý vị mới được thưởng thức tác phẩm này mà thôi. Trên diễn đàn này cũng không có đâu mà tìm. Thái Thứ Lang chết trong Nam Việt Nam vào những năm đệ nhị cộng hòa miền nam.